Đến nay, sau 8 năm thi hành, LPS 2004 đã diễn tả được vai trò là một trong những phương tiện pháp lý quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Việt Nam trong việc thể chế hóa chính sách kinh tế của quốc gia, tạo điều kiện tiện lợi cho các doanh nghiệp, hiệp tác xã đang trong tình trạng sản xuất kinh dinh khó khăn, thua lỗ có nhịp để rút khỏi thị trường một cách có thứ tự. Tuy nhiên, LPS 2004 đã bộc lộ một số hạn chế tạo động thụ động đến việc thúc đẩy sự phát triển kinh doanh của doanh nghiệp, hiệp tác xã... Thành thử, việc sửa đổi, bổ sung một số quy định của LPS hiện nay là việc làm cấp thiết. Chánh án TANDTC Trương Hòa Bình chủ trì phiên họp xây dựng LPS (tháng 7/2013) Tổng hợp các vắng tổng kết thực tại thi hành LPS, các văn bản hướng dẫn LPS của ngành TAND và các cơ quan sở quan cho thấy: Có 55 điều luật trong tổng số 95 điều của LPS có vướng mắc, bất cập. Trong đó, có một số vướng mắc, bất cập đặt ra đề nghị phải sửa đổi, bổ sung LPS. Sau 8 năm thi hành LPS, trong số 63 TAND cấp tỉnh thì có 49 Tòa án có nhận đơn và giải quyết tổng số 336 đơn đề nghị tuyên bố vỡ nợ, 14 Tòa án không nhận đơn và giải quyết đơn đề nghị tuyên bố phá sản. Trong tổng số 336 đơn yêu cầu tuyên bố vỡ nợ, Tòa án đã ra 236 quyết định mở thủ tục vỡ nợ và 83 quyết định tuyên bố phá sản. Trong 83 quyết định tuyên bố vỡ nợ có 7 trường hợp Tòa án ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, cộng tác xã bị vỡ nợ trong trường hợp đặc biệt (Điều 87 LPS 2004). Có 140 vụ việc chưa ra quyết định tuyên bố phá sản, trong đó có 49 vụ việc có lý do chưa thu hồi được các khoản nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã chưa bán được các tài sản của doanh nghiệp, cộng tác xã. Về đối tượng ứng dụng của LPS: Theo quy định, LPS hiện hành chỉ ứng dụng đối với doanh nghiệp, hợp tác xã mà không ứng dụng với các chủ thể kinh dinh khác như cá nhân chủ nghĩa, hộ gia đình. Do đó, có nhiều Tòa án đề nghị mở mang đối tượng ứng dụng của LPS theo hướng mọi tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất kinh doanh và có đăng ký kinh dinh nếu lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn thì đều có thể bị đưa ra Tòa án để giải quyết theo thủ tục vỡ nợ. Các chủ thể kinh dinh trong đó có cá nhân, hộ gia đình... Cần được bình đẳng với các chủ thể kinh dinh khác (doanh nghiệp) trong việc dùng các cơ chế do pháp luật quy định, trong đó có cơ chế phá sản. Nếu chẳng may thua lỗ thì các chủ thể này cũng được hưởng một cơ chế xử lý nợ như các tổ chức sinh sản kinh dinh khác để có nhịp trở lại hoạt động sinh sản kinh dinh. Các chủ nợ cũng đảm bảo cơ chế đòi nợ đúng luật pháp, tránh tình trạng bắt xiết nợ, gây mất trật tự an toàn tầng lớp như một số trường hợp xảy ra hiện thời. Nhiều hộ gia đình có quy mô kinh dinh lớn, làm ăn với doanh nhân nước ngoài nên LPS cũng cần sửa đổi cho hạp với LPS của thế giới, nhất là khi Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức thương nghiệp thế giới. Về căn cứ xác định doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng vỡ nợ: Tại Điều 3, LPS quy định, doanh nghiệp, cộng tác xã không có khả năng tính sổ được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng vỡ nợ. Nhiều ý kiến cho rằng, quy định này chưa cụ thể, dẫn đến việc đánh giá doanh nghiệp lâm vào tình trạng vỡ nợ, mất khả năng thanh toán có phải do làm bõ bèn lỗ hay không còn gặp nhiều khó khăn. Do đó, cần quy định về tiêu chí xác định rõ ràng, cụ thể “không có khả năng thanh toán”, “các khoản nợ đến hạn” và “lâm vào tình trạng phá sản”; về giá trị cụ thể của khoản nợ và kì hạn quá hạn là bao nhiêu để xác định doanh nghiệp, cộng tác xã có bị coi là lâm vào tình trạng phá sản hay không? Theo quy định tại khoản 2 Điều 5 LPS thì: Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, căn cứ vào quy định cụ thể của LPS, quan toà quyết định áp dụng thủ tục bình phục hoạt động kinh doanh hoặc thủ tục thanh lý tài sản; hoặc chuyển từ vận dụng thủ tục bình phục hoạt động kinh dinh sang áp dụng thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ hoặc tuyên bố doanh nghiệp, hiệp tác xã bị phá sản. Tuy nhiên, LPS không quy định điều kiện chuyển đổi, lớp lang, thủ tục chuyển đổi trên như thế nào, gây khó khăn, vướng mắc cho các Tòa án địa phương trong quá trình vận dụng quy định này. Do đó, các cơ quan luật pháp kiến nghị bổ sung quy định về điều kiện, thủ tục, lớp lang thực hiện việc chuyển đổi vận dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh dinh sang ứng dụng thủ tục thanh lý tài sản. Hơn nữa, trong thực tiễn, việc giải quyết các đề nghị tuyên bố vỡ nợ thường kéo dài rất lâu, nhiều thủ tục rườm rà, phức tạp. Do đó, LPS sửa đổi cần quy định bổ sung một loại hình vỡ nợ rút gọn dành cho các doanh nghiệp cần phá sản ngay, sau khi khẳng định đủ điều kiện vỡ nợ mà không phải sang các bước theo trình tự thủ tục quy định trong LPS hiện hành. Cao Văn Tỉnh |