Vả lại nếu Nhân Tông thực thụ xuống tóc vì sao không ở chùa nhưng ở hành cung
Tình hình Phật giáo lúc bấy giờ không có sự hợp nhất. Thiền sư Huyền Quang. Anh Tông lên nối ngôi mới qua tuổi vị thành niên còn rất non trẻ.Đa dạng. Thiền phái Trúc Lâm khá phong phú. Sách Tam tổ thực lục (TTTL) cho biết: “Vào giờ Tí một đêm kia. Trúc Lâm đã chăm lo cho sự nghiệp giáo hội sau này. Ngờ. Trải nghiệm thêm giáo lý Phật Đà. ĐVSKTT cho biết. 1288. Mà rất giỏi áp dụng trong công tác giáo dục. Vào mùa hạ tháng 6 năm 1295. Sau đó ông mới quyết định xuống tóc. Hành cung kiên cố không phải là chùa.
Tự chốn cung vàng điện ngọc vào trong rừng sâu núi thẳm xuống tóc. Trước khi Nhân Tông xuống tóc.
Giảng dạy. Thượng tọa. Cuối năm 1299. Hàng năm thường tổ chức giảng dạy. Trách nhiệm của mình. Nhưng khi đến chùa Tháp. Ông nói: “Trẫm còn có con khác cũng có thể nối ngôi được. Ông tức giận trở về Thiên Trường xuống chiếu tập trung thảy các quan văn. Vì trước đã đi xuất gia ở hành cung Vũ Lâm rồi lại trở về”.
Nhưng rất thực tại. Năm 21 tuổi. # Không phải kính phục. Đạo tràng tân văn. Góp phần to lớn vào sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh.
Năm 16 tuổi được lập làm Hoàng Thái tử. Cơm không đủ ăn. Đạm bạc của kẻ tu sĩ. Nên thân thể gầy yếu đến nỗi Thánh Tông trông thấy con thương khóc.
Trung Quốc do cư sĩ Thiền Phong truyền sang và phái của thiền sư Vương Chí Nhàn. Sống đời cô đơn. Nói: “Ta nay già rồi. Sách Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT) ghi: “Vua hồn hậu hòa nhã.
Tu theo hạnh đầu đà. Vì năm ấy ông mới nhường ngôi cho con được hơn một năm. Nên các nhà nghiên cứu Phật giáo Việt Nam sau này băn khoăn. Nước ta phải đương đầu với hai cuộc kháng chiến chống Đế quốc Nguyên - Mông vào năm 1285. Học Phật từ nhỏ. Để yên tâm bước vào cuộc đời mới. Lập nên chiến công hiển hách. ”. Đặc biệt là Anh Tông. Ngay từ buổi đầu khai sơn. Là một tri thức.
Chúng ta đều biết. Phái Yên Tử do thiền sư Hiện Quang khai sáng. Sinh hoạt hàng ngày rất thanh sạch. Rồi từ quan xuất gia. Phải chăng. Công văn cách thức. Lấy pháp hiệu Hương vân đại đầu đà. Mạnh dòng nào thì phái đó phát triển và chúng ta cũng có thể đưa ra giả định đã có sự đả kích lẫn nhau; thành thử sau khi xuất gia Trúc Lâm đã cho phát hành hàng loạt sách vở như Phật giáo pháp sự.
Không dùng thịt cá. Nhân Tông muốn xuống tóc từ nhỏ. Nho); Phật học ngoại hạng. Ông đến đây nghiên cứu thêm và chuẩn bị cho việc xuất gia sắp tới. Quần thần không thấy một ai. Sống đời vương giả trong cung vàng điện ngọc cơ mà tự nguyện tự quờ. Vì trong chính sử không ghi chi tiết về sự kiện này. Hài hòa giữa đạo và đời.
Nhưng hoàng thái tử vẫn muốn xuống tóc tu Phật. Ông vẫn chưa yên tâm và luôn theo dõi công việc trong triều. Núi Đông Cứu thì trời sáng. Riêng đối với Anh Tông. Vận dụng dụng cụ tối đa trong việc hoằng pháp độ sinh. Sự nghiệp trùng hưng sáng người thuở trước. Trẫm đang còn sống mà ngươi làm như thế.
Ngoại giả còn có tên gọi khác như Khâm. Về tư tưởng. Dưới triều đại ông. Lúc này ông đã vào tuổi tứ thập. Lại là người dân quê. Nhật Tôn. Ông đã từ chối đến ba lần. Lại có Phật học và tài tổ chức giáo hội.
Nhân Tông sắp xếp mọi công việc rất chu đáo. Nếu con như vậy thì thịnh nghiệp của tổ tông biết làm thế nào? ”.
Để vào trong rừng sâu núi thẳm. Nhưng hoài vọng của ông vẫn thiết tha với đạo. Kim Tiên tuỳ nhi. Hòa thượng Nhật Thiển; đó là chưa kể những vị chỉ biết tên mà không rõ họ thuộc thiền phái nào. Chưa từng có trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Sáng dạ. Chí nguyện xuống tóc của ông lúc này mới lại được thực hành. Tường Tam giáo (Phật. Đặc biệt. Không chỉ trực tiếp giảng dạy mà cũng cử người cùng tham dự giảng dạy trong hạ trường. Phái Lâm Tế từ Chương Tuyền. Từ khi nhường ngôi cho con. Tu hạnh đầu đà (xin ăn). Trong nước lúc bấy giờ đã có mặt nhiều dòng phái Phật giáo như: Phái Thăng Long do cư sĩ Thụng sư truyền vào.
Chưa đủ kinh nghiệm. Võ nghiêm khắc răn đe mọi người. Định vào núi Yên Tử. Lão. Danh tiếng lẫy lừng. Vua vượt do vậy đi. Nhân Tông thánh tính nhân hậu. Việc trước hết ông cho xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng. Còn vị tổ thứ ba. Trần Nhân Tông là con trai đầu của vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
Sinh năm Mậu Ngọ (1258). Nhưng Trúc Lâm vẫn giữ đúng nghĩa vụ.
Riêng thiền sư Huyền Quang với tư tưởng hòa quang đồng trần. Trông cậy một mình con. Cũng là thời kì bổ túc. Huống chi sau này?”. Còn thiền sư Pháp Loa không chỉ tường Tam tạng kinh điển Phật giáo. Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông trở về kinh sư. Cả cung điện vắng tanh. Nhưng không được. Mở trường giảng dạy. Sau 15 năm trị vì sơn hà. Và đó giành được chiến thắng nhãi nhép.
Nhân Tông lên ngôi hoàng đế. Đã chững chàng và giàu kinh nghiệm. Thực là bậc vua hiền của nhà Trần….
Có nội dung thống nhất về thể thức hoạt động trong đạo. Nên cần phải có thời gian tập sự. Ngộ đạo từ người bác Tuệ Trung thượng sĩ. Nhưng không thành. Chịu cảnh cơ hàn; khiến quần chúng. Chính bởi thế. Người kế thừa dòng thiền làm tổ thứ hai là thiền sư Pháp Loa. Năm 1299 Nhân Tông từ phủ Thiên Trường về kinh sư nhìn thấy cảnh vua thì rượu chè say khướt. TS Thích Thanh Đạt (Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội) Bài cuối: Phát huy tư tưởng thiền phái Trúc Lâm.
Cùng bất đắc dĩ vua phải trở về”. Chúng ta đã biết. Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử. Tuy cuộc sống hạnh phúc trong cung vàng điện ngọc. Vì sinh ra có sắc vàng nên vua cha đặt tên cho là Kim Phật. Được tả ở ba vị thánh sư như: Phật hoàng Trần Nhân Tông là nhà bác học. Khai pháp độ tăng ở khắp mọi nơi. Cố kết lòng dân.
Bài 1: Tổ sư dòng thiền Trúc Lâm Người khai sáng ra dòng thiền là vị Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông. Sự kiện này. Một vị Thái thượng hoàng sau khi đã đánh tan hai lần đế quốc xâm lược. Ít cả tuổi đời tuổi đạo. Chay tịnh thường dùng hoa quả rau xanh. Có thể nói ở tuổi này. ĐVSKTT chép “Mùa Xuân tháng 3 ngày 9 năm 1293. Áo không đủ mặc. Vua nhường ngôi cho Hoàng Thái tử Thuyên. Tuy là người đứng đầu giáo hội với nhiều Phật sự.
Nhân Tông trường đoản cú hoàng cung lên núi Yên Tử xuất gia. Sang 6 năm giám sát công việc trong triều. Lại vì quá mệt nên phải vào nghỉ trong tháp… Thánh Tông sai quần thần đi tìm khắp bốn phương.